CHỮA BỆNH VỚI RAU BẮP CẢI
BẮP CẢI TRỊ HO, VẾT THƯƠNG SƯNG TẤY, BONG GÂN
Bắp cải có vị cay, tính mát, khí giáng mà hoạt. Nó có khả năng chữa ho giai đoạn viêm nóng, làm mát phổi (khi đã bị viêm), dịu các vết sưng đau viêm nóng và làm tan các u kết, thanh nhiệt, thải độc, chống khát. Trong ăn uống hàng ngày, bắp cải có thể luộc, xào, muối dưa, cuốn thịt.. Khi luộc hay ép nước uống hàng ngày cần thêm ít gừng cho đỡ lạnh. Trong trị bệnh, đôi khi cần lợi dụng tính mát thì không cần thêm gừng, vd nước ép bắp cải để trị ho (giai đoạn đã bị viêm - nhiệt).
Bắp cải hợp với các bệnh thể nhiệt, ở giai đoạn đã sưng viêm tấy nóng. Ở giai đoạn mới chớm nhiễm lạnh thì ko nên dùng. Lúc đó nên dùng các thức nóng ấm như gừng. Sau khi nhiễm lạnh mà k chữa kịp gây ra viêm, lúc đó sẽ chuyển qua giai đoạn nhiệt, nóng thì hợp với bắp cải.
Bắp cải dùng dạng sống thì dược tính mạnh hơn. Các loại hành hẹ bắp cải nếu chín thì giảm tác dụng hoặc ko còn thế nên các bài dưới đây đều có thể dùng sống.
Sau đây là phần SƯU TẦM
Lá bắp cải liệu pháp chữa bệnh tốt nhất dành cho người nghèo
Cám ơn Linh mục Hoàng Minh Thắng & Đình Tứ & Kim Tuyến đã chia sẻ cho con tư liệu này
Sau khi bạn đọc xong bài này, thì khi ngồi ở bàn ăn lần tới, bạn sẽ nhìn đĩa rau BẮP CẢI với sự trân trọng và sự hiểu biết về đặc tính giúp cơ thể tự chữa lành thật không ngờ của bắp cải.
Tiến sĩ Blanc viết như sau vào năm 1881: “Vào năm 1880, một người đánh xe ngựa ở một làng nhỏ nước Pháp bị ngã xuống đất, và bánh xe cán qua chân anh.
Tai nạn này thường xẩy ra vào thời bấy giờ. Hai bác sĩ cho rằng cưa chân là việc cần thiết phải làm.
Một bác sĩ giải phẫu được mời đến hội ý, ông đồng ý, và cuộc giải phẫu ấn định vào sáng hôm sau.
Nhưng lúc 5 giờ chiều hôm đó, cha sở, Loviat Claude, khuyên mẹ anh lấy lá bắp cải đắp vào chân bị thương cho anh.
Hiệu qủa kỳ diệu là anh ngủ ngon suốt đêm.
Khi anh vừa thức giấc, cũng là lúc các bác sĩ đến để sửa soạn cho việc cưa chân, họ nhận thấy anh có thể di chuyển chân được.
Lớp bắp cải được lấy ra để lộ bắp chân không còn sưng nữa và màu sắc cũng khá hơn.
Tám ngày sau, chân anh khỏi hoàn toàn và anh đi làm trở lại.”
Bắp cải thông thường đã góp phần quan trọng cho sự sống của con người hơn 4000 năm.
Dược tính của bắp cải, căn cứ trên kinh nghiệm thực tế, có nền tảng khoa học.
Hippocrates nói rằng các y bác sĩ không nên ngần ngại theo ý kiến của dân gian những gì hữu ích cho y học.
Bây giờ chúng ta biết rằng y học truyền thông dân gian về bắp cải đã đã đứng vững với thời gian và thử nghiệm khoa học.
Hai báo cáo y học khác sử dụng bắp cải đáng chú ý:
-Một thợ làm đồng hồ bị nấm eczema ở cả hai bàn tay đau nhức nhiều trong một năm khiến anh không thể làm việc được.
Hai bàn tay bị viêm cấp tính, móng tay tách khỏi nền móng, muốn rụng ra.
Đắp lá bắp cải cho anh hai lần mỗi ngày, trong vài ngày đã giúp giảm đau, vì dòng nước trong được rút vào trong thuốc lớp đắp.
Tiếp tục đắp như vậy trong hai tháng, anh được khỏi hẳn.
Năm 1875, một ông 75 tuổi bị hoại tử mạch máu ở bắp chân và bàn chân bên phải.
Da đã đen lại và phía trước bàn chân đang thối rữa.
Người ta dùng lá bắp cải đắp chung quanh chân, da chân đã đổi từ màu đen sang màu nâu rối màu đỏ, sau cùng trở về màu khỏe mạnh tự nhiên.
Ba tuần sau, bác sĩ Blanc viết trong hồ sơ là anh đã tiến triển đáng kể.
Vẫn chưa khám phá vì đâu lá bắp cải có được tính chất chữa lành quý giá như vậy.
Chúng ta chỉ biết rằng lá bắp cải có sức rút máu mủ cách đặc biệt.
Nhờ rút ra được chất độc lỏng từ những vùng nhỏ, mà bắp cải đẩy mạnh sự chữa lành và làm liền da, vì vậy ngăn ngừa được các biến chứng phức tạp.
Thành tích lâu dài trong lịch sử qua việc chữa trị dùng lá bắp cải, với nhiều bệnh khác nhau, từ những thương tích đơn giản đến phức tạp, đau thấp khớp, đau dây thần kinh mặt, nhức đầu, loét chân, bệnh than (anthrax), và nhiều bệnh khác.
Bắp cải tươi sống trong món salad, nước ép, hoặc hấp, đều có các đặc tính trội vượt hẳn cho rất nhiều loại bệnh khác nhau. Hippocrates đặc biệt ưa chuộng rau bắp cải. Khi bệnh nhân bị đau bụng dữ dội, ông liền cho toa ăn một đĩa rau bắp cải luộc với muối.
Erasistratus dùng bắp cải như phương thuốc hiệu năng để chữa bệnh tê liệt.
Pythagoras, và triết học gia khác, viết sách, trong đó họ đề cao các tính chất tuyệt vời của bắp cải.
Cato cho rằng bắp cải chữa trị mọi bệnh; và ông sử dụng nó như là một thuốc chữa bách bệnh để bảo vệ gia đình khỏi các bệnh dịch.
Cato cho biết thêm rằng người La Mã suốt trong 600 năm dùng bắp cải mà không cần đến sự trợ giúp nào của thầy thuốc. Thầy thuốc phải đi nơi khác để sinh sống.
Người La Mã sùng bắp cải để chữa nhiều bệnh nội thương lẫn ngoại thương khác nhau như thuốc xổ, thưốc khử trùng, thuốc đắp.
Lính La Mã đắp bắp cải lên vết thương của họ. Rembert Dodens, bác sĩ Hà Lan thời Maximilian II, và Rudolph, năm 1557 đã viết trong quyển 'History of Plants - Lịch sử các loài thực vật' như sau:
"Nước ép bắp cải làm mềm bụng và giúp dễ xổ.
Nó làm sạch và chữa trị những vết loét cũ.
Nước ép bắp cải trộn với mật ong là xi-rô chữa khàn giọng và ho.
(100g cải, 50g hẹ giã ép lấy nước, pha thêm ít mật ong sao cho vừa làm nước uống ngày 2 lần)
Lá, khi nấu chín đắp trên các vết loét mãn tính (chronic ulcers), làm dịu và chữa lành chúng, và hỗ trợ trong việc làm tan bướu và làm lành các vết thương.
Các bác si ngành Y ở Paris đã viết vào năm 1829 (Universal Dictionary of Materia Medica):
"Bắp cải là một trong các thứ mua dùng có giá trị qúy báu nhất của con người.
Nó chống lại bệnh còi do thiếu vitamin C (scurvy), nó ngăn chặn bệnh gút, các lá non mềm được đắp lên các vết thương và hạt trị giun sán." Một bác sĩ trong những năm của thế kỷ XIX đã phòng ngừa cho ông và gia đình qua nhiều năm chống lại các bệnh dịch mùa đông nhờ ăn rau bắp cải luộc hàng ngày.
Ông đề nghị cách chữa cảm lạnh và viêm thanh quản như sau: 500 g nước ép bắp cải đỏ, 3 g nghệ, 250 g mật ong và đường, tất cả nấu lên cho thành xi-rô.
Mỗi lần uống 1 muỗng canh hòa trong một ly nước trà, ngày 3-4 lần. Tiến sĩ Blanc viết: "Bắp cải là liệu pháp chữa trị cho người nghèo, không gì đơn giản hơn bắp cải.
Dùng đắp bên ngoài rất dễ, hiệu qủa nhanh chóng và không có hại. Người ta có thể thấy ngay được tận mắt.
Các lợi ích rất nhiều, và tôi thách bất cứ ai tìm ra một lý do nào chính đáng cho việc không nên dùng bắp cải trong trị liệu.”
Việc chuẩn bị bắp cải như sau:
Rửa lá hoặc ngâm vài phút trong nước được vắt vào một lát chanh. Lau khô, dùng dao hay kéo cắt bỏ phần sườn cứng ở giữa.
Nếu muốn đắp lên vết loét hay vết thương nhạy cảm: dùng cái chày hay chai nước lăn tròn trên lá cho lá dập ra, nước bắp cải sẽ chảy ra trên mặt, sẵn sàng để đắp. Chỗ nào khó buộc lá thì giã nát lá đắp vào
Một, hai hay ba lần đắp tùy theo tình trạng vết thương.
Lấy miếng vải dầy phủ lên trên và tiếp tục việc đắp trong vài gìơ, thường là cả đêm, hay suốt ngày nếu đau nhức làm cho không ngủ được.
Nếu vết loét sưng và ngứa, ngâm lá bắp cải trong dầu dừa, (hay dầu oliu, dầu mè) 30 phút.
Việc này sẽ làm dịu mô viêm cũng như chống nhiễm trùng và hỗ trợ việc chữa lành.
Khi đắp lá bắp cải trên vết thương nhiễm trùng, ung loét, hay nấm eczema rỉ nước nhớ đắp các lớp chồng lên nhau như lợp mái nhà để có chỗ cho máu mủ, chất lỏng chảy ra giữa các lớp.
Khi điều trị đau lưng, đau khớp, hoặc các bệnh khác nhau do dây thần kinh hoặc bàng quang, thuốc đắp lá bắp cải giúp thuyên giảm nhanh chóng.
Thuốc đắp được chuẩn bị như sau: nấu sôi 20 phút 2-4 lá bắp cải với 2 lát hành tây và 3-4 nắm cám gạo mì với 1 chút nước. Khi nước cạn, cho vào gạc băng và đắp nóng trong 1-2 giờ, hay cả đêm. (Không bao giờ đắp nóng lên vùng bụng đau nhức).
Chỉ có bác sĩ mới chần đoán chính xác nguyên nhân của chứng đau bụng này, và đắp nóng lên vùng viêm ruột thừa hay nhiễm trùng buồng trứng có thể có hại).
Bác sĩ Garnett-Cheney, giáo sư tại Trường Y khoa Stanford, xuất bản một báo cáo liên quan đến việc sử dụng nước ép bắp cải trong điều trị loét dạ dày.
Trong 65 trường hợp được báo cáo, có 62 trường hợp được chữa khỏi vào cuối tuần thứ ba. Bắp cải được dùng để chữa bệnh thiếu máu của động vật thí nghiệm gây ra bởi một chế độ ăn uống chỉ dùng sữa.
Trong nghiên cứu tại Đại học Texas. Tiến sĩ W. Shive chiết xuất từ bắp cải một chất mà ông gọi là Glutamine, hữu ích trong việc điều trị chứng nghiện rượu và loét dạ dày.
Bắp cải có giá trị vô vàn đối với phụ nữ mang thai, cho bệnh nhân thiếu máu, mệt mỏi, nhiễm trùng, bị ký sinh trùng đường ruột, có sạn, và viêm khớp.
Chúng tôi liệt kê thêm một số bệnh mà bắp cải được sử dụng để chữa trị:
MỤN TRỨNG CÁ : Thoa lên mụn nước ép bắp cải trước nếu muốn, rồi đắp lá bắp cải.
NGHIỆN RƯỢU : Ăn bắp cải, hấp chín hoặc ăn sống và uống nước ép bắp cải.
PHỎNG :Đắp lá bắp cải nghiền trên vùng bị phỏng để giảm đau và gia tăng việc chữa lành.
XƠ GAN :Uống nước ép bắp cải và ăn bắp cải sống hoặc hấp chín.
VIÊM ĐẠI TRÀNG : Đáp 3 hoặc 4 lớp lá bắp cải trên bụng mỗi buổi tối băng lại để không rớt qua đêm. Đồng thời uống nước ép giữa các bữa ăn.
TÁO BÓN : Uống vài ly nước luộc bắp cải mỗi ngày.
TIÊU CHẢY : Đắp lá bắp cải trên vùng bụng ban ngày, đắp tiếp lớp mới băn đêm và uống nước bắp cải luộc.
NHỨC ĐẦU :Đắp lá bắp cải lên trán và sau gáy của em, để qua đêm. Đáp trên vùng gan cũng có thể là cần thiết.
CÔNG TRÙNG CẮN : Xoa một lá bắp cải nghiền trên vết cắn.
BỆNH THẬN : Đắp lá bắp cải trên vùng thận suốt đêm và vài giờ trong ngày.
ĐAU BỤNG KINH NGUYỆT : Đắp lá bắp cải trên vùng bụng dưới trong vài giờ.
BONG GÂN: Buộc 3-4 lá bắp cải dầy chung quang vùng bị bong gân, để suốt đêm.
Lần tới khi bạn thấy cây bắp cải tầm thường, hãy nhớ rằng nhiều người qua nhiều thế kỷ đã dùng nó để được chữa lành các loại bệnh thể lý.